Theo Phó giáo sư tiến sĩ Lê Linh Phương, Phân khoa Niệu Thận, Bệnh viện ĐH Y Dược TP HCM, niệu đạo là một phần quan trọng của đường tiết niệu, đảm nhận nhiệm vụ chính là đưa nước tiểu ra ngoài cơ thể ở cả 2 giới. Riêng với nam giới, niệu đạo có vai trò quan trọng trong việc xuất tinh từ đường sinh dục.
Bệnh hẹp niệu đạo thường gặp ở nam hơn nữ do niệu đạo nam dài hơn nên dễ bị tổn thương và nhiễm bệnh hơn. Bệnh hiếm khi gặp ở trẻ mới sinh. Với người lớn, hẹp niệu đạo có thể xảy ra sau phẫu thuật tuyến tiền liệt, lấy sỏi, đặt ống thông hoặc làm thủ thuật trong đường tiểu. Ở trẻ em, bệnh thường gặp sau phẫu thuật tạo hình các dị tật bẩm sinh, nội soi bàng quang hoặc sau đặt thông tiểu lâu ngày. Có trường hợp không xác định được nguyên nhân.
Ảnh minh họa: Tổ Ấm Việt.
Ở nam giới, hẹp niệu đạo có thể xảy ra từ cổ bàng quang đến đầu dương vật. Nguyên nhân phổ biến là do chấn thương niệu đạo kết hợp với gãy xương chậu, nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục hoặc tổn thương do can thiệp qua niệu đạo. Khi đó, ở bên trong hoặc xung quanh niệu đạo của bệnh nhân sẽ có một sẹo xơ gây cản trở dòng nước tiểu thoát ra ngoài.
Niệu đạo giống như một "vòi nước". Khi một đoạn nào đó của ống bị hẹp, dù ngắn hay dài, dòng chảy sẽ bị giảm đáng kể. Niệu đạo hẹp nhiều làm giảm lưu lượng dòng nước tiểu, bệnh nhân sẽ đi tiểu thường xuyên, tiểu khó, dòng tiểu nhỏ. Tình trạng này có thể gây nhiễm khuẩn niệu, viêm tuyến tiền liệt và viêm mào tinh hoàn. Nếu tắc nghẽn trong thời gian dài có thể gây suy thận. Bệnh cũng ảnh hưởng chất lượng hoạt động tình dục, đặc biệt ở nam giới, khiến quý ông không còn mặn mà "chuyện ấy". Đây là một trong những nguyên nhân gây liệt dương, xuất tinh sớm, thậm chí vô sinh.
Một số dấu hiệu nhận biết bệnh này là cảm giác tiểu khó, dòng chảy chậm, lượng nước tiểu giảm, có máu trong nước tiểu, đau bụng dưới, tiết dịch niệu đạo, nhiễm trùng đường tiết niệu. Bệnh nhân không thể đi vệ sinh như bình thường mà phải được đặt một ống thông trên xương mu để đưa nước tiểu từ bàng quang ra ngoài.
Để chẩn đoán bệnh, bác sĩ cần khám lâm sàng, chụp hình niệu đạo bằng X-quang hoặc siêu âm, soi niệu đạo. Phương pháp điều trị rất đa dạng, phụ thuộc vào chiều dài, vị trí và mô sẹo của đoạn hẹp. Dựa vào kết quả xét nghiệm, bác sĩ có thể nong rộng niệu đạo, cắt đoạn hẹp bằng laser hay dao cắt nội soi, đặt stent, phẫu thuật tạo hình cắt nối dùng vạt da hoặc mảnh ghép.
1. Nong niệu đạo: Thường được thực hiện ở phòng khám. Sau khi gây tê tại chỗ, bác sĩ sẽ sử dụng các que nong với kích thước tăng dần để làm rộng niệu đạo. Ngoài ra, đoạn hẹp cũng có thể được nong bằng một trái bóng đặc biệt trên ống thông. Nong niệu đạo thường không giải quyết triệt bệnh lý này để nên phải được thực hiện lặp đi lặp lại. Thủ thuật có thể gây đau, chảy máu, nhiễm trùng.
2. Xẻ niệu đạo (cắt đoạn hẹp): Thủ thuật này sử dụng một ống soi được thiết kế đặc biệt để đưa vào niệu đạo cho đến khi gặp đoạn hẹp. Sau đó, người ta dùng một lưỡi dao hoặc sợi laser ở đầu ống soi để cắt đoạn hẹp. Một ống thông được đặt vào niệu đạo trong một khoảng thời gian cho đến khi vết thương lành. Thời điểm rút ống thông sau khi phẫu thuật phụ thuộc vào tình trạng đáp ứng của bệnh nhân.
3. Đặt stent niệu đạo: Thủ thuật này đặt một stent kim loại vào niệu đạo bằng cách sử dụng một ống soi được thiết kế đặc biệt. Ưu điểm của phương pháp này là xâm lấn tối thiểu, tuy nhiên chỉ phù hợp với rất ít trường hợp.
4. Tạo hình niệu đạo: Nhiều phẫu thuật khác nhau được sử dụng để tạo hình niệu đạo. Không có một phẫu thuật nào là thích hợp cho tất cả các tình huống mà phụ thuộc vào đặc điểm của đoạn hẹp và kinh nghiệm của bác sĩ phẫu thuật. Với đoạn hẹp ngắn có thể phẫu thuật cắt nối 2 đầu (urethroplasty anastomotic). Khi đoạn hẹp dài hoặc không thể cắt nối, một tổ chức mô có thể được chuyển đến để mở rộng đoạn hẹp (phẫu thuật dùng mô thay thế).
Để phòng ngừa căn bệnh này, giáo sư tiến sĩ Linh Phương cho rằng điều quan trọng nhất là phòng tránh tổn thương niệu đạo và xương chậu. Nếu bệnh nhân tự thông tiểu thì nên dùng chất bôi trơn và sử dụng ống thông nhỏ nhất để tránh làm tổn thương niệu đạo. Hẹp niệu đạo có thể biến chứng nếu bệnh nhân bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục như lậu và chlamydia. Khi đó, việc điều trị bệnh kịp thời và đầy đủ với kháng sinh sẽ giúp ngăn ngừa biến chứng này.