> Những liệu pháp trị đau đầu hiệu quả tại nhà
Ngày càng nhiều nghiên cứu cũng khẳng định, những người thường xuyên bị stress là đối tượng bị nguy cơ mắc bệnh ung thư cao nhất. Stress cũng thường tạo ra hoặc làm nghiêm trọng hơn triệu chứng các bệnh tự miễn dịch thí dụ các bệnh tuyến giáp như Hashimoto, Graves-Besedow, bệnh viêm khớp, tiểu đường dạng 1, hội chứng khô mắt và bệnh viêm niêm mạc ruột già.
Nhiều chứng cứ cho thấy, stress có thể đóng vai trò nhất định trong xuất hiện các rối loạn tâm lý. Ngoài số lượng lớn các bệnh thần kinh, giới chuyên môn cho rằng, stress cũng là thủ phạm phát sinh các bệnh tâm lý như trầm cảm và tâm thần phân liệt.
Stress là hiện tượng rất phức tạp và rất khó định nghĩa chính xác. Trong cuộc sống thường nhật khái niệm này thường được dùng để mô tả trạng thái bực bội hoặc tâm lý bất an. Phạm trù “stress” có nguồn gốc từ vật lý ám chỉ đủ loại căng thẳng, sức ép hoặc áp lực tác động đến trạng thái tâm lý. Khái niệm stress được BS Hans Hugon Selye, chuyên gia nội tiết Canada gốc Áo đưa vào lĩnh vực sinh học. Theo BS Sellye, stress là phản ứng chức năng chấp nhận của cơ thể xuất phát từ sự khác biệt giữa năng lực và đòi hỏi của tình huống, xui khiến đối tượng quyết định hành vi ứng xử nhằm lấy lại trang thái cân bằng, tức homeostasis. Homeostasis là trạng thái bình thường của tất cả các cơ thể sống. Homois – sự cân bằng; stasis – sự tồn tại (theo tiếng Hy Lạp), tức homeostasis có nghĩa sự ổn định, trạng thái cân bằng môi trường bên trong cơ thể. Cơ thể khỏe mạnh và đề kháng tốt với mọi bệnh tật - nếu trạng thái cân bằng này được duy trì.
Trong thuật ngữ y học stress là tình trạng rối lọan homeostasis do nhân tố thể chất hoặc tâm lý gây ra. Stress trong cắt nghĩa phản ứng của cơ thể với những nhân tố bên ngoài là di sản tiến hóa của loài người. Trong quá khứ xa xưa, ở con người, phản ứng với stress thường đòi hỏi chiến đấu hoặc chạy trốn, tức hành động dứt khoát và chớp nhoáng. Bất chấp nhiều ngàn năm tiến hóa đã trôi qua, cho đến nay phản ứng đầu tiên với nhân tố stress vẫn là sự kích hoạt một phần hệ thần kinh có tên hệ đồng mẫn cảm.
Hệ quả trong vòng vài giây tuyến thượng thận tiết ra với cường độ cực mạnh hai hormone: adrenalin và noradrenalin. Hiện tượng dẫn đến sự tăng tốc nhịp tim, hô hấp, giãn nở đồng tử - tức cơ thể chuẩn bị chiến đấu hoặc chạy trốn thông qua tăng cường trao đổi chất và năng lực tri giác.
Nếu tình trạng stress kéo dài hơn bình thường hoặc yếu tố stress quá mạnh cơ thể sẽ huy động thêm hệ sinh học tiếp theo, tức trục dưới đồi-chân đồi não bộ-tuyến thượng thận. Vùng vỏ não dưới đồi tiết ra hormone cortycoliberyne (CRH), hợp chất kích thích vùng chân đồi tiết ra hormone cortycotropin (ACTH). Tiếp theo ACTH kích thích tuyến thượng thận tiết ra mineralocortycoid và glucocortycoid ( trong đó cortyzol chiếm tỷ lệ cao nhất). Cortyzol là thành phần hoạt chất mạnh nhất trong tất cả các glucocortycoid và đóng vai trò quyết định trong điều chỉnh các quá trình trao đổi chất của cơ thể - khi bị stress. Thông qua việc kìm hãm tiêu thụ các hợp chất trao đổi chất và cùng lúc khơi gợi tuyến nội tiết sản xuất hormone, cortyzol cung cấp glucoza, axit amin và các axit béo cho máu. Nó cũng dập tắt các mầm mống phản ứng tự miễn dịch và viêm nhiễm. Việc giải phóng cortyzol vào tuần hoàn máu đảm bảo việc duy trì nồng độ adenozynotrifosforan (ATP –“nhiên liệu năng lượng” của tế bào) trong cơ thể. Tóm lại, các hormone do tuyến thượng thận tiết ra chuẩn bị cho cơ thể hoạt động tức thì, trái lại cortyzol đảm trách nhiệm vụ huy động năng lượng (glucoza) và những hợp chất cần thiết khác, để duy trì hoạt động này.
Định nghĩa stress và những quá trình diễn ra trong cơ thể trong tình huống stress được giới thiệu ở trên cho thấy những mặt tích cực của nó như nỗ lực giúp con người tồn tại. Có thực tế phi lý: một mặt, với tư cách phản ứng của cơ thể với mối đe dọa, không nghi ngờ stress là lợi nhuận mang tính tiến hóa; mặt khác stress gắn liền với số lượng khổng lồ bệnh tật. Từ đâu xuất hiện nghich lý này?
Như đã nhắc ở phần trên, ở con người nguyên thủy, phản ứng với stress là quyết định “chiến” hoặc trốn chạy, hành động chớp nhoáng, mạnh mẽ để rồi sau đó xuất hiện thời gian thư giãn cho đến mối đe dọa tiếp theo. Chúng ta có thể quan sát những tình huống tương tự ở động vật sống hoang dã. Trên không gian nhiều ngàn năm con người đã tạo nên trong sự tiến bộ của nền văn minh những xã hội sống trong điều kiện ngày càng khác xa lối sống nguyên thủy. Đặc biệt vài chục năm qua đã mang lại sự thay đổi hàng loạt lối sống và gần như hoàn toàn cách ly con người khỏi tự nhiên. Cuộc sống hiện đại đòi hỏi sự thích nghi hoàn toàn khác, trong khi việc cải biến môi trường sống và lối sống diễn ra quá nhanh đối với các cơ chế tiến hóa. Cơ thể chúng ta và những cơ chế hormone thần kinh vẫn tồn tại không đổi và phản ứng với các mối đe dọa y hệ cách đây nhiều ngàn năm. Và rắc rối nảy sinh ở chính chỗ này.
Cần phải nhấn mạnh rằng, không phải tất cả stress đều xấu. BS Hans Selye, cha đẻ khái niệm stress đã kể phân biệt stress mang tính xây dựng và stress tiêu cực. Nhà khoa học Đức cho rằng, stress có thể thực hiện chức năng tích cực, một khi nó động viên con người hoạt động hiệu quả hơn trong một số tình huống. BS Selye đặt tên cho stress tích cự là eustress; và đặt tên distress cho stress thái quá gây tổn hại.
Các nghiên cứu hiện đại xác nhận, với liều vừa phải, stress động viên làm việc, kích thích hoạt động, là động cơ sức mạnh. Stress có mức độ tăng cường khả năng tự xoay sở với đòi hỏi thích nghi môi trường, nhờ thế tạo điều kiện phát triển tâm lý. Nhiều nhà nghiên cứu hiện tuợng xác nhận nó như nhân tố cơ bản của sự phát triển. Với liều thích hợp, stress là động cơ hành động. Stress mang lại tác dụng không mong muốn, chỉ một khi nó quá mạnh hoặc kéo dài. Stress xuất hiện quá tường xuyên và kéo dài quá lâu có thể dẫn đến những rối loạn nghiêm trọng chức năng cơ thể. Ngay từ những năm 50, thế kỷ XX, BS Selye đã đưa ra giả thiết cho rằng, rất nhiều bệnh thể chất là hậu quả bất lực của con người trong cố gắng tự xoay sở với stress. Ông đặt tên cho sự bất lực này là hội chứng thích ứng chung và đã mô tả trong cuốn sách “Stress cuộc sống”.
Thủ phạm chính và nguồn gốc những chứng bệnh do stress gây ra là stress kinh niên. Việc lý giải khái niệm allostasa do GS. BS Bruce McEwan, một trong những nhà khoa học hàng đầu nghiên cứu về cơ chế stress sử dụng là việc làm cần thiết, để hiểu được cơ chế hoạt động của nó. Theo GS. BS McEwan, đáp lại những thay đổi mạnh mẽ của môi trường, cơ thể giảm thiểu hoặc tăng cường sức mạnh nội lực nhằm xác lập trạng thái cân bằng mới. Năng lực duy trì trạng thái cân bằng thông qua thực hiện những thay đổi nhiều hệ thống của cơ thể được GS. BS McEwan gọi là allostasa (sự ổn định thông qua thay đổi, theo tiếng Hy Lạp). Allostasa tích cực duy trì sự ổn định của môi trường bên trong cơ thể. Đó là trạng thái, mà cơ thể trải nghiệm, nhưng gánh chịu những hậu quả bất lợi. Trong điều kiện bình thường allostasa cần duy trì trạng thái cân bằng đến thời điểm xuất hiện sự chấp nhận cuộc sống mới của cơ thể hoặc biến mất sự thay đổi môi trường. GS. BS McEwan gọi nó là gánh nặng allostatic, một khi việc duy trì allostasa quá giai đoạn cần thiết đến thời điểm, khi nó bắt đầu mang lại nhiều thiệt hại hơn lợi ích. Gánh nặng allostatic duy trì thời gian dài sẽ gây những chấn thương tâm lý nặng nề và có thể dẫn đến tử vong.
Xuất hiện câu hỏi: nếu nền văn minh hiện tại liên tục gây ra cho chúng ta trạng thái stress không thể đoán trước, dẫn đến nhiều chứng bệnh thể chất và các rối loạn tâm lý, vậy thì tại sao vẫn có nhiều người khỏe mạnh? Có thể thực tế tồn tại những cá thể khỏe mạnh trong thế giới cạnh tranh và ganh đua khốc liệt hiện nay chỉ là vấn đề thời gian. Giới khoa học chọn trầm cảm là bệnh đặc thù của thế kỷ XXI cuộc sống ngày càng bi đát và bấp bênh, ngay năm 2000 tại Mỹ bệnh mạch vành đã là nguyên nhân tử vong cao nhất, người ta cũng quan sát được tình trạng gia tăng đột biến các bệnh ung thư (ung thư vú, tuyến tiền liệt, ung thư tuyến tụy, ung thư phổi, ung thư não, ung thư tinh hoàn...), bệnh đường tiêu hóa và bất lực gắn liền với thành công nghề nghiệp, bệnh tâm thần đã trở thành phổ biến như xổ mũi nhức đầu, còn các số liệu thống kế cho thấy, tình hình còn tồi tệ hơn trong những năm tới.
Con số gia tăng đột biến những người nghiện đủ loại chất kích thích và an thần trong những năm qua xuất phát chủ yếu từ mong muốn giảm thiểu tối đa mức độ stress, cải thiện không khí và tách khỏi thực tế mệt mỏi. Hậu quả dẫn đến sự gia tăng làn sóng các bệnh gây ra bởi việc sử dụng thường xuyên các hợp chất độc hại và dẫn đến sự gia tăng tần suất các bệnh do stress gián tiếp gây ra. Cũng may vẫn có không ít phương pháp cho phép con người giải phóng khỏi tác động tiêu cực của stress đối với sức khỏe. Làm việc gì đó bản thân thích thú khả dĩ giúp con người vượt qua stress. Điều kiện: công việc đó bắt buộc thu hút mọi sự chú ý của chúng ta. Điều quan trọng, để phát triển sở thích của mình, cần làm những gì mang lại cho bản thân cảm giác thoải mái. Không được phép để xảy ra tình trạng tích tụ stress.
Trò chuyện chân thành với bạn bè, chia sẻ với bạn những phiền muội hành hạ bản thân cũng mang lại trạng thái thư giãn nhất định. Yoga và thiền ngày càng thu hút đông đảo công chúng tham gia. Việc kết hợp các thành phần bài tâp thể chất, kỹ năng hô hấp và trí tuệ phát huy tác dụng cắt giảm stress, cùng lúc dẫn đến cải thiện sức khỏe thể chất tâm lý. Gần đây thậm chí cả ngành công nghiệp dược phẩm cũng tung ra thị trường vô số tân dược và thực phẩm chức năng được quảng cáo “chớp nhoáng loại bỏ mọi hiệu ứng bất lợi của stress”. Liệu tất cả đã đủ? Liệu điều đó có cho phép chúng ta kiểm soát được stress độc hại và tồn tại như một loài được tạo ra trong thế giới không mấy thân thiện? Thời gian sẽ trả lời.
Theo Nguyễn Hanh
Tri Thức Trẻ