Xét nghiệm trước khi mang thai sẽ giúp bạn và con bạn có một cơ thể khỏe mạnh
1. Làm một số xét nghiệm về huyết học và nội tiết
Việc không tiến hành xét nghiệm trước khi có ý định mang thai là một nhận thức cũng như thói quen sai lầm, có thể gây những hậu quả nghiêm trọng cho cả mẹ và con.
Theo các chuyên gia phụ sản thuộc Trung tâm Bà mẹ và Trẻ em tại Vacsava (Ba Lan), từ 3 đến 6 tháng trước khi có kế hoạch mang thai, việc đầu tiên cần phải làm là các xét nghiệm sau đây:
Xét nghiệm máu: Đây là xét nghiệm rất quan trọng nhằm xác định nhóm máu của người mẹ để trong trường hợp sinh con, thai phụ bị tai biến như băng huyết cần truyền máu sẽ giúp các bác sĩ xử lý nhanh.
Mặt khác, khi xét nghiệm sẽ biết bạn có bị thiếu máu không, để từ đó tìm cách khắc phục, như bổ sung chất sắt, B12.
Trong trường hợp bạn có yếu tố Rh âm, phải làm xét nghiệm xác định yếu tố Rh của chồng, để tránh sự không tương hợp Rh, mà hậu quả của nó là thai nhi sau này sẽ bị thiếu máu, vàng da, điều trị tốn kém.
Xét nghiệm hàm lượng đường và đạm trong nước tiểu và máu: Đối với người phụ bình thường, trong nước tiểu không có đường. Nếu có, chỉ xuất hiện sau khi ăn quá nhiều đường (đường sinh lý) hay do bệnh tiểu đường.
Nếu hàm lượng đường trong huyết cao trong thời gian mang thai, thai sẽ bị một trong dị tật: Khiếm khuyết ống thần kinh, không có não, có đuôi, nứt đốt sống, não úng thủy, dị tật về tim và thận, thai quá to gây đẻ khó, trẻ sinh ra sẽ bị suy hô hấp, bị hạ đường huyết, tăng bilirulin.
Do vậy, việc xét nghiệm nếu thấy hàm lượng đường trong huyết cao thì cần có biện pháp để đưa về đường huyết ổn định, nhằm tránh những rủi ro nêu trên.
Hàm lượng đạm trong nước tiểu sẽ cho biết chức năng thận, qua đó đánh giá mức độ một số bệnh như cao huyết áp, tiểu đường hay suy thận. Hàm lượng đạm cao trong nước tiểu gây nguy cơ ngộ độc thai nghén, dẫn tới nhiều tai biến khác.
Xét nghiệm huyết trắng nhằm phát hiện viêm nhiễm đường sinh dục: Viêm nhiễm đường sẽ dẫn tới sảy thai, sinh non, vỡ ối sớm, làm lây bệnh cho trẻ sơ sinh.
Biểu hiện đầu tiên dễ nhận biết là huyết trắng. Việc xét nghiệm huyết trắng sớm nhằm xác định rõ bệnh gì để chọn cách điều trị thích hợp.
Xét nghiệm nồng độ các hoóc-môn tuyến giáp: Nồng độ các hoóc-môn tuyến giáp quá thấp sẽ gây khó khăn trong việc thụ thai và có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Trái lại, nếu nồng độ quá cao thì sẽ gây sinh non.
Việc tiến hành xét nghiệm trước khi có ý định thụ thai nhằm xác định nồng độ các hoóc-môn để có thời gian áp dụng các biện pháp điều chỉnh nồng độ hoóc-môn cân bằng.
Xét nghiệm tìm virus viêm gan B: Viêm gan B là căn bệnh khá phổ biến tại nhiều nước đang phát triển, có nơi tỷ lệ mắc bệnh đến 21%. Nếu mẹ bị viêm gan B, virus rất dễ gây cho trẻ sau sinh và gan sẽ không làm tốt chức năng, dấn tới thai phụ sẽ bị một số bệnh lý khác ảnh hưởng xấu tới thai nhi.
Trong trường hợp xác định không bị viêm gan B, người mẹ tương lai cần uống ba liều vắc-xin phòng ngừa. Đã xảy ra trường hợp sẩy thai khi thai phụ mắc viêm gan B.
2. Theo dõi chặt chẽ huyết áp
Huyết áp cao là một trong những nguyên nhân chính gây ngộ độc thai nghén mà hậu quả là sinh non hay sẩy thai.
Khi huyết áp gia tăng cần có biện pháp thích hợp điều chỉnh thông qua chế độ ăn-uống chống huyết áp cao hay gia tăng hoạt động thể lực.
3. Điều trị những bệnh răng – miệng
Khi đã mang thai, việc điều trị các bệnh đau răng, sâu răng bằng các loại thuốc kháng sinh là điều cấm kỵ, vì các hoạt chất kháng viêm sẽ nhanh chóng thâm nhập vào hệ lưu thông máu của mẹ và thâm nhập vào thai nhi gây nhiều tổn thương cho sự phát triển của thai nhi.
Các nghiên cứu cho thấy, nồng độ nhiều hợp chất của thuốc trong thai nhi cao hơn rất nhiều so với trong cơ thể mẹ, vì thai nhi chưa hình thành đầy đủ cơ chế chuyển hóa các loại thuốc.
Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển bào thai rất mẫn cảm với các hớp chất hóa học làm tổn thương tới quá trình hình thành các bộ phận của thai nhi.
4. Không uống rượu, bia và hạn chế dùng các loại thuốc thông thường
Có thế uống một ly rượu vang đỏ vào sau bữa tối để khí huyết lưu thông tốt hơn. Việc uống rượu, bia vô độ dẫn đến những tổn thương hệ thần kinh sau này của trẻ và khi trưởng thành dễ bị rơi vào nghiện ngập.
Chỉ khi thật cần thiết mới dùng đến những loại thuốc thông thường như cảm cúm, giảm đau. Trong trường hợp bị cảm, nhức đầu và sổ mũi nên dùng các loại lá thảo mộc để điều trị.
5. Áp dụng chế độ dinh dưỡng giàu rau xanh và trái cây
Nhiều phụ nữ ngộ nhận rằng, khi chuẩn bị manh thai cần ăn nhiều thịt và các món “sơn hào hải vị” để tẩm bổ cho cơ thể. Trong khi đặc biệt quan trọng lại là chế độ dinh dưỡng cung cấp cho cơ thể đầy đủ liều lượng các vitamin và khoáng chất từ nguồn thiên nhiên, đó là rau xanh và trái cây.
Lượng đạm cho cơ thể chủ yếu từ cá và thịt gia cầm, các chế phẩm từ sữa bò, lạc và vừng. Nên ăn ít và chia thành 5bữa/ngày để đảm bảo đủ chất và các cơ quan nội tạng hoạt động vừa sức.
Hàng ngày, nên uống ít nhất là 1,5 lít nước, có thể là nước trái cây ép hoặc nước khoáng không ga. Trong thành phần bữa ăn nên hạn chế các món giầu chất béo có nguồn gốc động vật và đường.
6. Gia tăng dùng a-xít folic
Các nghiên cứu tại Anh cho thấy nếu hằng ngày cung cấp 0,4mg a-xít folic trong suốt ba tháng trước khi thụ thai sẽ giảm 59% nguy cơ xuất hiện các khuyết tật trong hệ thần kinh của trẻ sinh ra.
A-xít folic tham gia vào quá trình tổng hợp các a-xít nucleic tạo AND, tham gia điều hòa sự tăng trưởng và hoạt động của tất cả các tế bào. A-xít folic còn có tác dụng làm giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. A-xít folic có chứa trong gan gia cầm, các loại đậu, bi-na, rau súp lơ xanh, hạt ngũ cốc.
Phần lớn trong chúng ta đều thiếu hụt a-xít folic vì hàm lượng của nó trong cơ thể luôn bị giảm sút do chúng ta bị stress, uống cà phê, uống rượu, dung các thuốc tránh thai. Là loại a-xít dễ bị phân hủy dưới tác động của nhiệt độ cao và ánh nắng mặt trời (hao hụt tới 70%).
Ngoài ra, cơ thể chúng ta chỉ hấp thụ 50% a-xít folic từ nguồn thực phẩm song laọi hấp thụ 100% từ nguồn tổng hợp. Do đó, tốt nhất là dùng các loại a-xít folic tổng hợp có bán tại các cửa hàng dược phẩm.
7. Gia tăng vitamin nhóm B và chất sắt
Vitamin nhóm B có tác động làm giảm và điều hòa nồng độ homocysteine – loại axít amin có tác động mạnh mẽ tới sức khỏe. Nồng độ axít amin này cao có thể làm rối loạn quá trình sinh lý của các tế bào.
Các nghiên cứu gần đây còn cho thấy nồng độ homocysteine cao dẫn tới phát sinh bệnh tim – mạch, huyết áp cao.
Có thể khẳng định rằng, chất sắt cần thiết cho phụ nữ như con người cần không không khí. Theo khảo cứu của Trung tâm Bà mẹ và Trẻ em Ba Lan, có tới 45% phụ nữ trong kỳ mang thai bị thiếu hụt chất sắt.
Tỷ lệ phụ nữ bị thiếu hụt chất sắt cao hơn nam giới. Việc để thiếu hụt chất sắt ở những bà mẹ mang thai có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho trẻ như nhẹ cân, thiếu máu, sinh non và sẩy thai. Do vậy, việc bổ sung chất sắt cho phụ nữ trước khi mang thai là rất quan trọng để rơi vào tình trạng thiếu máu.
Nhu cầu hàng ngày cho cơ thể là khoảng 2mg chất sắt. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu tăng lên 26mg/ngày. Chất sắt có chứa trong gan lợn (18,7mg/100g), gan bò (9,4mg/100g), hạt đậu (6,9mg/100g).
Song để có thể hấp thụ chất sắt từ nguồn thực phẩm thì phải cung cấp cho cơ thể chất “xúc tác” – đó là vitamin nhóm B – đặc biệt là B6, B12 và B9 (a-xít folic) cùng vitamin C.
8. Cần có chế độ tập luyện thể dục tăng cường sự dẻo dai các cơ
Các khảo cứu tại nhiều nước cho thấy, những phụ nữ thường xuyên tập luyện thể lực, các cơ được tăng cường hầu như không bị đau cột sống khi mang thai và khi sinh nhẹ nhàng và chóng vánh.
Việc tập thể dục thường xuyên và đều đặn có tác động tích cực với tinh thần, giúp đầu óc sảng khoái, giải tỏa stress – kẻ thù khi mang thai.
Các hoạt động thể lực cho phụ nữ trước khi thụ thai có thể là tập thể dục aerobic, đi bộ nhanh, bơi lội, đi xe đạp. Nên chọn loại hình vận động mà mình ưa thích.
Phạm Quang Thiều
Theo Zdrowie, tháng 9/2008