Để chẩn đoán kinh lạc, có thể dựa theo 1 số tiêu chuẩn sau :
1.- Dựa vào huyệt chẩn đoán
Thí dụ : Ấn vào huyệt Trung phủ hoặc Phế du thấy đau, có thể nghĩ đường kinh Phế bệnh hoặc bị xáo trộn.Thí dụ : Ấn vào huyệt Trung quản thấy đau, có thể đoán là kinh Vị bệnh hoặc bị xáo trộn.2.- Dựa theo triệu chứng chính của bệnh
Có thể dựa vào triệu chứng chính tiêu biểu liên hệ đến các kinh mà suy ra kinh bệnh.
Thí dụ : Hen suyễn..., liên hệ đến Phế kinh (Phế chủ hơi thở).
- Rối loạn tiêu hóa, liên hệ đến Tỳ Vị (Tỳ chủ tiêu hóa).
- Rối loạn đường tiểu, liên hệ đến Thận, Bàng quang (nước tiểu thuộc Thận).
3.- Dựa vào vị trí liên hệ đến đường kinh
Thí dụ : Điểm đau ở mặt ngoài cẳng chân có liên hệ đến kinh Đởm, kinh Vị.
- Đau mặt trong cánh tay, có thể nghĩ đến kinh Tâm, Tâm bào, Phế.4.- Dựa vào độ cảm nhiệt : của các tĩnh huyệt
Dùng mồi lửa có nhiệt độ không thay đổi, đặt cách tĩnh huyệt 1 khoảng cách không thay đổi xem bao lâu thì người bệnh cảm thấy nóng. Huyệt nào có độ nhạy cảm bất thường thì có thể nghĩ đến đường kinh của nó bị bệnh hoặc xáo trộn.5.- Do điện trở hoặc lưu thông điện của các nguyên huyệt
Đo điện trở hoặc cường độ của tất cả các Nguyên huyệt, tổng cộng rồi chia cho 24 để có 1 chỉ số tương đối trung bình làm chuẩn, Nguyên huyệt nào có chỉ số bất thường là Kinh của nó bị bệnh.
Theo Kinh Lạc Chẩn còn có 1 số điểm đau trên vùng da ở xa nơi bị bệnh mà YHHĐ cũng đã bắt đầu nhận thấy qua sự thay đổi điện sinh vật hoặc thay đổi điện trở tại các điểm đau đó.
Thí dụ : Khi đau bao tử, YHCT thấy rằng ấn vào huyệt Túc tam lý thấy đau. Theo sự nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về biến đổi điện thế da tại huyệt Túc Tam Lý, Trung quản và Vị du trước và sau bữa ăn cho thấy : Huyệt có Túc Tam Lý và Vị du có sự thay đổi rõ nhất. Theo tài liệu này, huyệt Túc Tam Lý và Vị du bên phải cơ thể lại có phản ảnh trạng thái hoạt động cơ năng yếu hoặc mạnh của Bao tử trong ổ bụng. (Xem thêm trong cuốn : "Toàn Quốc Trung Y Kinh Lạc Châm Cứu Học Tọa, Tọa Đàm Hội Tư Liệu Tuyển Biên" Viện Y Học Hà Bắc 1958).
Tên huyệt
Trước bữa ăn
Ngay sau bữa ăn
Cao hơn trước khi ăn
Tỷ lệ phần trăm trước bữa ăn
Vị du trái
Vị du phải
37 mV
48,5 mV
53,7 mV
78,5 mV
16,7 mV
30 mV
46%
61,8%
Trung quản
25,5 mV
51,6 mV
26,6 mV
106%
Túc tam lý trái
Túc tam lý phải
20,2 mV
16 mV
54,25 mV
53,8 mV
32,45 mV
36,9 mV
155,2%
218,3%
Qua bảng theo dõi trên, huyệt Vị du và Túc Tam Lý bên phải có sự thay đổi rõ nhất và nói lên sự liên hệ giữa Túc Tam lý Vị du và Bao tử.
So sánh với YHHĐ ta thấy : Cả 2 nền Y học đều có những nhận xét trùng hợp về vị trí của điểm đau và vùng đau trên vùng da tương ứng với 1 số nội tạng đau bên trong cơ thể.
Thí dụ : theo YHCT, khi Bao tử đau, thường ấn đau huyệt Trung quản, theo YHHĐ thì khi có bệnh viêm loét Bao tử, tá tràng thường xuất hiện dấu hiệu Mendel dương tính tại giữa vùng bụng trên (Thượng vị). Hoặc những điểm ấn đau Vị du, Tỳ du của YHCT trong bệnh đau bao tử, trùng hợp với các điểm mà YHHĐ thấy tìm thấy dọc vùng sống lưng từ đốt sống ngực thứ 8, (D8) đến đốt sống eo lưng thứ 2 (L2) trong bệnh loét bao tử tá tràng.
Thí dụ khác : Khi bị viêm ruột thừa cấp, theo YHCT, thường ấn đau huyệt Lan vĩ, và theo YHHĐ, khi đo điện trở, thấy điện trở của da tại huyệt đó cao nhiều hơn bình thường.
Tuy nhiên, để việc chẩn đoán có hiệu quả chính xác hơn, cần phối hợp với các phương pháp chẩn đoán khác, vì kinh lạc chẩn cũng chỉ là 1 trong số các phương pháp chẩn bệnh thôi.
(theo trường phái Ryodoraku).(Kobe Akabane Test)Tìm xem cảm giác khác thường : đau... ở vùng liên hệ đến đường kinh nào, có thể suy đoán bệnh liên hệ với đường kinh đó theo nguyên tắc : "Kinh lạc sở qua, chủ trị sở cập". Mỗi đường kinh đều có liên hệ với 1 tạng phủ, cơ quan bên trong, do đó, qua đường kinh có thể biết được sự xáo trộn ở cơ quan tạng phủ tương ứng bên trong. Mỗi đường kinh có 1 số huyệt được dùng để chẩn đoán (xem bài học thuyết Kinh lạc) do đó, khi ấn vào huyệt chẩn đoán của đường kinh nào, thấy đau có thể đoán đường kinh đó đang bệnh hoặc có sự xáo trộn.