Tâm tình người cùng làm lao

ThS.BS Đào Duy An

"Y học, trước tiên là không gây hại!” (trích)
Sáng Ngày Chống Lao Thế giới, rong ruổi khắp nẻo Sài Gòn hồn hoa mà làm chạnh. Sao vắng thế dù dòng ngược xe đen kịt và rối rắm. Người bán hàng rong, anh chạy xe thuê, chị bán cháo lòng khắp mọi vòng xoay không hề biết ngày lao là gì mà họ chỉ biết trưa nay có gì ăn không. Đau lòng?

Ngày còn làm lao, tôi đã thấy thực trạng lao, đặc biệt ở người bất lợi. Họ đợi chờ gì ở thầy thuốc Việt Nam? Nếu bị bệnh thì hãy chữa cho họ khỏi bệnh; nếu thiếu tiền thì cho họ thư thả trả; nếu họ không muốn chữa trị thì đừng chữa cho họ; nếu họ bị lao thì đừng cho ai biết vì dị lắm, mặc cảm lắm; tôi mà lao ư; chỉ bị lao lực thôi...có lẽ nếu nghiên cứu sinh nào về chuyên ngành lao điều tra thì hợp lý hơn tôi, kẻ bỏ lao đã lâu. Thực trạng lao được báo chí Việt Nam đề cập như thế nào?

Tôi trích nguyên văn:

“Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hôm 5/9 thông báo đã phát hiện một dòng vi trùng lao kháng thuốc cực mạnh (XDR TB) trên khắp thế giới, trong đó có Mỹ, Đông Âu và châu Phi.
XDR TB được miêu tả không chỉ kháng những thuốc ở tuyến đầu mà còn kháng ít nhất là 3 loại thuốc ở tuyến 2 - tuyến phòng thủ cuối cùng chống vi trùng lao, vốn gây độc hại nhiều hơn cho bệnh nhân cùng với thời gian điều trị và chi phí đắt đỏ. Theo WHO, đây là chủng vi trùng lao "hầu như không thể trị được". Hiện các nhà nghiên cứu và giới chức y tế trên thế giới đang đau đầu vì chủng vi trùng lao MDR TB, có khả năng kháng ít nhất 2 loại thuốc tuyến đầu. Bác sĩ Paul Nuun của WHO cho biết, sự xuất hiện của dòng vi-rút XDR TB là do áp dụng phương pháp điều trị không đúng cách.” (00:19:34, 07/09/2006; www.thanhnien.com.vn)
” Theo định nghĩa thì lao kháng thuốc là lao đề kháng với Rifampin và INH. Lao kháng thuốc phổ rộng (XDR-TB) ngoài kháng 2 thuốc trên, còn đề kháng với bất cứ fluoroquinolone nào và đề kháng ≥ 1 trong 3 thuốc tiêm chữa lao là capreomycin, kanamycin và amikacin.
Một nghiên cứu tại Ý của bác sĩ Besozzi và cộng sự đăng trên “Emerging Infectious
Diseases” ngày 05.01.07, cho biết họ lấy dữ liệu kháng lao tại Đức và 3 thành phố ở Ý để tìm sự khác biệt giữa lao kháng thuốc và lao kháng thuốc phổ rộng.

Trong số 2888 mẫu cấy TB dương tính (Ý 2140 và Đức 748), 126 (4.4%) là MDR hay lao kháng thuốc (Ý 83 Đức 43) và 11 (0.4%) là XDR-TB hay lao kháng thuốc phổ rộng. Họ ước lượng mẫu cấy được phân tích đại diện cho 24% trường hợp ca có mẫu cấy dương tính được báo cáo (69.7% trường hợp lao kháng thuốc) và 4.2% những ca báo cáo tại Đức (12.6% MDR). XDR-TB hay lao kháng thuốc phổ rộng được chẩn đoán hàng năm trong nghiên cứu. Tất cả 11 bệnh nhân XDR-TB đều đã được điều trị, và trong số 126 bệnh nhân MDR-TB, 74 (58.7%) đã và đang điều trị. Tất cả bệnh nhân XDR-TB đều có phản ứng HIV âm tính và 109 bệnh nhân MDR-TB thử HIV, 10 (9.2%) có phản ứng HIV dương tính. Bệnh nhân XDR-TB gần như đề kháng với hầu hết thuốc ở tuyến đầu (8/11 so với 36/126), 2 trong số những bệnh nhân này đề kháng với tất cả các thuốc thử nghiệm.

Tại Đức, những người không phải dân Đức chiếm đến 95.3% (41/43) ca MDR-TB và 100% (3/3) ca XDR-TB (tất cả từ Liên bang sô viết cũ); tại Ý, MDR-TB chiếm 72.3% (60/83) và XDR-TB chiếm 50% (4/8).

Trong số 126 bệnh nhân MDR-TB, 8 (6.3%) chết, 45 (35.7%) điều trị thành công, 67 (53.2%) vẫn còn điều trị sau khi thử nghiệm vi sinh âm tính, tiến bộ trên phim X quang lâm sàng hay cà hai, và 6 điều trị thất bại.
Trong số 11 bệnh nhân XDR-TB, 4 (36.4%) chết, và 7 (63.6%) vẫn còn điều trị. So với bệnh nhân MDR-TB , bệnh nhân XDR-TB có nguy cơ tử vong cao gấp 5 lần (nguy cơ tương đối 5.4% khoảng tin cậy 95% 1.95-15.27) và đòi hỏi phải điều trị tại bệnh viện lâu hơn.
Phiến phết mẫu cấy chuyển thành âm tính thấy ở 4 bệnh nhân XDR-TB so với 102 MDR-TB. Số phần trăm XDR-TB cao hơn MDR-TB trước đó có điều trị (100% 11/11) so với 59% (74/126).
Tác giả kết luận trường hợp lao kháng thuốc hay kháng thuốc phổ rộng do quản lý kém của chính phủ, kể cả lơ-là không chú ý bệnh này có thể đề kháng nên không có biện pháp đối phó với đề kháng. Trong báo về lao trên toàn thế giới của tổ chức y tế thế giới, nhiều nước ở Đông Nam Á trong đó có cả Việt-nam không báo cáo và có lẽ bộ y tế VN cũng không có số liệu rõ ràng về lao đề kháng.
Một bài báo khác ngày 01.11.08 trên tờ Pretoria news ở Nam Phi cũng cảnh báo XDR-TB có thể là nguy cơ cho sức khỏe quần chúng trầm trọng hơn cả nhiễm HIV/AIDS. Họ bảo cơ quan y tế nhà nước chưa làm đủ để chống bệnh.
Trong tháng 11/07, bộ y tế Nam Phi xác nhận 481 ca XDR-TB và 216 người trong số này đã qua đời.
Bệnh lao phát triển ở các vùng nghèo, và bệnh nhân lao kháng thuốc hay kháng phổ rộng không nhiều, bộ y tế VN nên cho điều trị những người này tại bệnh viện và khuyên họ đeo khẩu trang để giảm lây lan cho người khác một loại vi trùng khó chữa.
(12.03.2008 06:52 www.benhvienlongxuyen.com)”
” Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa có báo cáo cảnh báo về tình trạng lao kháng thuốc đang lan nhanh trên thế giới.
Theo WHO, tại một số nước tỷ lệ mắc lao kháng thuốc đã tăng đến hơn 20%, cao hơn nhiều so với con số mà các chuyên gia từng lo ngại.

Chủ đề Ngày Chống Lao Thế giới 24/3/2008

Nơi có tỷ lệ lao kháng thuốc cao nhất là Baku, thủ đô Azerbaijan, với 22,3% ca mắc bệnh lao mới được phát hiện kháng thuốc.
Tình hình càng đáng lo ngại hơn khi các chuyên gia phát hiện XDR-TB, một chủng lao kháng thuốc khá phổ biến và gần như không thể điều trị, hiện đã được phát hiện ở 45 nước.
Báo cáo của WHO được đưa ra dựa trên thông tin thu thập trong thời gian từ 2002-2006 ở 1⁄2 các nước trên thế giới do các nước còn lại không hợp tác. Chẳng hạn tại châu Phi chỉ có sáu nước cung cấp thông tin về lao kháng thuốc cho WHO.
“Lao kháng thuốc là mối đe dọa lớn đối với tất cả mọi người trên hành tinh này. Không như HIV chỉ lây lan qua những con đường đặc biệt nào đó, bạn có thể bị mắc bệnh khi đi tàu hỏa hoặc máy bay”, Mark Harrington, giám đốc điều hành Treatment Action Group, một nhóm chuyên gia cố vấn sức khỏe cộng đồng, nói.

Các chuyên gia cho rằng cần có nhiều loại thuốc trị lao mới cũng như nhiều phương pháp chẩn đoán mới nhằm phát hiện sớm các chủng lao kháng thuốc. 27/02/2008, 17:03; www.tuoitre.com.vn “
“Những mục tiêu của CTCLQG giai đoạn 2001-2010 cũng tập trung khắc phục những yếu tố này. Với mục tiêu cơ bản là giảm 50% số bệnh nhân hiện mắc (prevalence) và 50% số bệnh nhân mới (incidence) nhằm giảm tỷ lệ chết và nhiễm lao, phấn đấu 75% số bệnh nhân lao phổi có vi khuẩn trong đờm hiện có theo ước tính được phát hiện sớm; Giảm tối đa nguy cơ kháng thuốc bằng cách điều trị khỏi 85% số bệnh nhân với chiến lược triển khai DOTS cho 100% số bệnh nhân lao.
www.cimsi.org.vn; truy cập ngày 24/3/2008”

"...”

Tóm lại, chỉ mỗi chuyện kháng thuốc.

Tôi không biết chương trình quốc gia đi được bao nhiêu bước tính đến ngày 24/3/2008?
Vậy chuyện để người dân biết về lao, cách phát hiện, chữa trị, thời gian chữa trị, điều chỉnh dân trí về lao...; chuyện thầy thuốc làm lao nhưng đi bán thuốc lao vốn miễn phí, chuyện thuốc kèm theo lao...chuyện thu nhập chính đáng của người làm lao...thì có nói, bao giờ nói và nói rồi thì làm thế nào? Chưa thấy nói! Người dân có biết lao kháng thuốc không hay làm họ sẽ càng sợ và mặc cảm thêm?
Tôi đã từng làm lao. Tôi chưa bao giờ làm láo.Tuy nhiên, một trong những ưu tiên trăn trở là thực trạng lao Việt Nam; vì vậy, tôi làm liền cái mà tôi thấy là đẹp cho ngày nay và ngày sau và giảm đau ngày quá khứ.

Thủ Đức 13g 24/3/2008;

ThS.BS Đào Duy An.

Bài liên quan