Lá lốt hái quanh năm, có thể dùng thân, hoa, hay rễ. Lá có công dụng ấm trung tiêu, ấm dạ dày. Chữa nôn mửa do bị khí lạnh bụng đầy đau. Chữa nhức đầu, đau răng, mũi luôn luôn chảy nước, đại tiện lỏng ra nước, ra máu. Trong nhân dân, lá lốt thường được dùng chữa các bệnh sau:
Chữa đau nhức xương khớp:
Bài 1: Dùng 5 - 10 g lá lốt phơi khô, hay 15 - 30 g lá tươi, sắc với nước, chia 2 - 3 lần uống trong ngày.
Bài 2: Lá lốt và rễ các cây bưởi bung, vòi voi, cỏ xước, tất cả đều dùng tươi thái mỏng, sao vàng, liều lượng bằng nhau (khoảng 15 g khô mỗi loại), sắc với 600 ml nước, còn 200 ml chia 3 lần uống trong ngày.
Bài 3: Lá lốt 20 g, thiên niên kiện 12 g, gai tầm xoong 16 g, tất cả sắc với 400 ml, còn 100 ml dùng uống trong ngày. Có thể dùng một trong các bài thuốc này, sắc uống liên tục 7 - 8 ngày sẽ có tác dụng tốt.
Chữa bệnh phụ khoa (các viêm nhiễm ở vùng âm đạo, ngứa, ra khí hư): Lá lốt 50 g, nghệ 40 g, phèn chua 20 g, đổ nước ngập lên mặt thuốc 2 đốt ngón tay, đun sôi, bớt lửa giữ cho sôi lăn tăn 10 - 15 phút, chắt lấy 1 bát, gạn lấy nước trong dùng rửa âm đạo. Phần còn lại tiếp tục đun sôi dùng để xông hơi vào âm đạo, có thể xông nhiều lần.
Chữa đổ mồ hôi nhiều ở tay chân: Dùng 30 g lá lốt tươi cho vào 1 lít nước nấu sôi, cho thêm ít muối, để nguội dần dùng ngâm hai bàn tay, hai bàn chân thường xuyên trước khi đi ngủ tối.
Chữa lỵ: Lấy 1 nắm nhỏ lá lốt, sắc với 300 ml nước, dùng uống.
Chữa bệnh tổ đỉa ở bàn tay: Đồng bào Mường có kinh nghiệm lấy 1 nắm thật to lá lốt, rửa sạch, giã nát, vắt lấy 1 bát nước đặc, uống làm một lần. Còn bã cho vào nồi đun với 3 bát nước, đun sôi vài lần rồi vớt bã để riêng. Khi nước âm ấm thì dùng rửa sạch tổ đỉa. Lau khô rồi lấy bã đắp lên, băng lại. Ngày làm 1-2 lần, liên tục trong 5 - 7 ngày là khỏi.
Theo B.s Vũ Nguyên Khiết
Sức khỏe và đời sống