Có thể tin rằng siêu âm an toàn cho thai vì trong vài thập kỷ gần đây, nhiều thử nghiệm và nghiên cứu lâm sàng đã cung cấp những bằng chứng cho thấy siêu âm không gây ra những hậu quả xấu cho thai và cũng chưa xác định đượcnguy cơ nào cho mẹ và cho thai.
Nhiều thử nghiệm lớn về sự an toàn của siêu âm, không thấy có sự khác biệt nào về phát triển thể chất, thần kinh và tâm lý ở những trẻ được theo dõi liên tục 12 năm. Do đó, cho tới bây giờ siêu âm vẫn được coi là phương pháp chuẩn đoán hình ảnh thai an toàn nhất.
Siêu âm trong sản khoa sử dụng sóng âm cao tần để truyền hình ảnh thực, sống động trong tử cung giúp thầy thuốc có thể nhìn thấy thai, nhau thai và túi ối.
Siêu âm không sử dụng tia X hay các kiểu bức xạ khác có thể gây hại cho thai nhi và có thể làm ngay từ tuần lễ thứ 5 của thai nghén; đôi khi có thể xác định được giới tính thai khoảng tuần lễ thứ 18.
2. Siêu âm có bức xạ, có ảnh hưởng đến thính giác của thai?
Cần nhắc lại, siêu âm không tạo ra bức xạ (như tia X) mà chỉ tạo ra sóng âm cao tần khi gặp các cấu trúc cơ thể thì phản hồi trên màn hình để tạo ra hình ảnh. Những sóng âm cao tần này, tai người không nghe được nên không nguy hiểm cho thính giác của thai.
3. Chẩn đoán siêu âm trong sản phụ khoa có từ bao giờ?
Công nghệ siêu âm ứng dụng trong sản khoa bắt đầu thực hiện từ những năm 50 và được ứng dụng rộng rãi vào những năm cuối của thập kỷ 70 và 80 thế kỷ trước. Nhưng vào thời đó vẫn chưa rõ làm siêu âm nhiều lần có nguy hiểm gì cho thai đang phát triển hay không.
Ngoài sự an toàn, chẩn đoán siêu âm còn có nhiều lợi ích khác và là tiến bộ quan trọng nhất trong số những tiến bộ ở lĩnh vực thực hành sản khoa trong hơn 30 năm qua.
Kể từ khi có siêu âm, thầy thuốc có thể theo dõi sự phát triển của thai, ngày sinh, tuổi thai, tư thế thai và cả những dị tật bẩm sinh như sứt môi, bàn chân vẹo, bệnh tim bẩm sinh (loại dị vật thường gặp nhất có tỷ lệ 8 trong số 1.000 trường hợp, so với dị vật ở cột sống là 1 trong 1.000 và hội chứng Down là 1 trong 700 trường hợp sinh - dữ liệu Mỹ).
Trước đây không hiếm trường hợp trẻ bị bệnh tim bẩm sinh đã bị tím tái sau đẻ và trở nên nguy kịch. Ngày nay, ở Mỹ những trường hợp như thế đã không còn phổ biến nhờ phát hiện sự bất thường ở 4 buồng tim, cung lượng tim bằng kỹ thuật siêu âm và trẻ được can thiệp phẩu thuật sớm.
Kể từ ba tháng giữa có thể biết thêm về vị trí của nhau (để chọc hút nước ối và lấy máu ở dây nhau), lượng nước ối, dây nhau.
Siêu âm qua đường âm đạo thường thực hiện sớm trong khi có thai để xác định tuổi thai hay phát hiện nghi ngờ có chửa ngoài tử cung, đôi khi thực hiện muộn hơn để xác định vị trí nhau hay theo dõi độ dài của cổ tử cung với thái nghén có nguy cơ cao.
4. Giới hạn của siêu âm chẩn đoán?
Tuy an toàn nhưng siêu âm không thể chẩn đoán được mọi bệnh của thai. Một số bất thường của thai chỉ bộc lộ vào cuối thời kỳ thai nghén, kể cả khi đã làm siêu âm thai từ trước và thấy bình thường.
Có chuyên gia sản khoa khuyên nên chuẩn đoán siêu âm trước sinh ít nhất hai lần trong ba tháng đầu của thai nghén để kiểm tra về giải phẫu của thai: Đo độ dầy của vùng sau cổ (vùng mờ), đo nồng độ trong máu beta-HCG và một protein có tên là PAPP-A để giúp phán đoán bị hội chứng Down và nhiều bất thường khác.
Làm như thế đạt được tỷ lệ chuẩn đoán chính xác hơn là làm ba test máu ở ba tháng giữa của thai nghén đang được sử dụng rất rộng rãi.
Tuy những lợi ích của tầm soát vùng mờ ở cổ thai bằng siêu âm ngay từ ba tháng đầu của thai nghén đã rõ và có bằng chứng nhưng mới chỉ có khoảng 15% số phụ nữ được làm thăm dò này tính trên toàn nước Mỹ. Số lượng chẩn đoán siêu âm khi có thai đến sáu lần cũng vẫn hoàn toàn an toàn.
5. Yêu cầu với người được làm siêu âm chẩn đoán?
Khi làm siêu âm sản hay phụ khoa, bàng quang cần đầy để có hình ảnh rõ (sóng âm dẫn truyền tốt hơn và các quai ruột không che lấp tử cung), người phụ nữ được yêu cầu uống nhiều nước hay các loại dịch khác.
Với siêu âm đầu dò âm đạo thì không cần có bàng quang đầy và thầy thuốc dùng bao làm bằng latex và gel bôi trơn (ví dụ gel K-Y) để dễ đưa vào cho nên nếu dị ứng với latex thì cần nói cho thầy thuốc biết.
Sau tuần lễ 11 của thai nghén, hầu hết chẩn đoán siêu âm được làm với đầu dò ngoài thành bụng.
6. Thời gian làm siêu âm chẩn đoán bao lâu?
Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) khuyến cáo giới hạn thời gian phơi nhiễm với sóng siêu âm là không dài quá thời gian tối thiểu cần thiết để có được các thông tin về thai (khoảng 15 phút) vì những nguy cơ liên quan đến thời gian phơi nhiễm với siêu âm vẫn chưa được xác định và FDA cũng không khuyến cáo làm siêu âm chuẩn đoán vì lý do không phải là y học như xác định giới tính thai.
7. Hình ảnh bất thường nào về siêu âm có thể phát hiện?
Thai chậm phát triển, nhỏ hay không tương ứng với tuổi thai - thai quá to so với tuổi thai - thai ngôi ngược - thai có dị tật như không có thận hay không có não - nhau tiền đạo (che phần cổ tử cung) - quá ít hay quá nhiều nước ối - chửa ngoài tử cung - thai trứng - tim thai không đập có nghĩa là thai đã chết.
8. Những lý do khiến không thể làm được siêu âm hay làm sai lạc kết quả?
Người béo phì - Có phân hay có hơi trong ruột non hay đại tràng - Có lượng nước ối quá ít - Một số tư thế - Không thể nằm yên lâu - Thai cựa quậy quá nhiều.
9. Có thể nghĩ gì về chuẩn đoán siêu âm?
Một hình ảnh siêu âm bình thường không bảo đảm sẽ sinh ra con lành lặn và khỏe mạnh. Nếu hình ảnh siêu âm thai không bình thường, có thể cần làm các thăm dò khác.
Ngày sinh dự kiến có thể thay đổi khi dựa trên kết quả siêu âm vào thời kỳ đầu của thai nghén, nếu dựa trên kích thước và sự phát triển của thai thì ngày dự kiến sinh có thể khác đi - siêu âm không phải bao giờ cũng phát hiện được các dị tật bẩm sinh. Vào ba tháng cuối của thai nghén, siêu âm thai không xác định được chính xác tuổi thai hay trọng lượng thai.
Siêu âm ba chiều cho thai đang được thử nghiệm để đánh giá những bất thường của thai - Siêu âm Doppler sử dụng sóng âm phản hồi để đánh giá tốc độ và dòng chảy của máu đi đến nhau và ở thai.
Nếu người phụ nữ không nhớ ngày kinh cuối cùng thì chuẩn đoán siêu âm có thể giúp xác định tuổi thai và dự đoán ngày sinh.
10. Chuẩn đoán siêu âm trong sản khoa chỉ nên giới hạn ở những chỉ định sau:
* Những lý do không cần làm siêu âm:
Không ra máu âm đạo và không bị đau bụng do có cơn co.
Nhớ rõ ngày kinh cuối cùng nên biết được tuổi thai.
Không có test trước sinh nghi ngờ thai có vấn đề.
Không có các yếu tố nguy cơ sinh con có khuyết tật.
Chỉ để biết giới tính thai.
* Những lý do chính đáng để làm siêu âm chẩn đoán
Đã từng bị ra máu âm đạo hoặc có cơn co, nghi ngờ sẩy thai hoặc đẻ non.
Không nhớ ngày kinh cuối cùng.
Đã từng có test trước sinh nghi ngờ thai có vấn đề.
Có những yếu tố nguy cơ sinh con có khuyết tật bẩm sinh.
BS. Đào Xuân Dũng
Orginal Source Những băn khoăn của phụ nữ mang thai khi siêu âm